20.06.15 Phê phán năng lực phán đoán – Mỹ học & mục đích luận (Immanuel Kant) (2/2)
(Bản dịch & chú giải của Bùi Văn Nam Sơn, 2006)
LNV: viên đá đỉnh vòm của toà nhà triết học Kant, năng lực phán đoán, kết nối giữa lý thuyết & thực hành, tự nhiên & tự do – thống nhất và hoà hợp do năng lực này.
Quyển cuối trong bộ 3 Phê Phán của Kant, khó đọc hơn, nhưng càng về sau càng hay, giải quyết 1 trong những câu hỏi hóc búa nhất: vậy Tự Nhiên có mục đích gì không? Mục đích của con người là gì? Vấn đề của Hữu Thể tối cao (hay là Thượng Đế)?
Và những nhận định rất hay về cái đẹp, sự vui sướng, hài lòng, thoả mãn, hay hạnh phúc – liệu có 1 cái đẹp phổ biến, toàn trị hay không?
Và phân biệt giữa cái đẹp chủ quan, khách quan như thế nào – làm sao một người mù có thể biết và cảm nhận được rằng 1 bức tranh là đẹp?
Đâu là điểm chung về cái Đẹp, hay nhận thức về cái Đẹp, giữa muôn người, bất chấp địa vị – văn hoá – kiến thức, có hay không?
Sự đào luyện về văn hoá của con người có phải là mục đích tối hậu hay là 1 con đường phải đi của con người?
Con người như là động vật hữu lý duy nhất có mục đích tự thân, vừa là nguyên nhân tự khởi, vừa là kết quả của nguyên nhân đó.
— Một vài trích dẫn —
******* (2/2) *****
Tôi khẳng định rằng một sự quan tâm trực tiếp đến cái đẹp trong tự nhiên bao giờ cũng là một dấu hiệu của một tâm hồn đẹp [lương thiện]
Sở dĩ người mù có thể hiểu được phán đoán của tôi về bức tranh đẹp vì người ấy biết rằng tôi không nói đến những thuộc tính cụ thể của đối tượng mà biểu lộ trạng thái tình cảm của tôi thôi.
Phán đoán thẩm mỹ là độc lập với đánh giá về luân lý. Đó là vấn đề thuộc về nguyên tắc.
Một vẻ đẹp của Tự Nhiên là một sự vật đẹp;
Còn vẻ đẹp Nghệ Thuật là một hình dung [hay biểu tượng] đẹp về một sự vật.
Không phải cứ làm những gì ĐÚNG là ĐỦ mà còn phải làm điều đúng chỉ từ lý do duy nhất là vì nó đúng.
Ta trải nghiệm được sự thích khoái là khi ta có thể đến được với cơ thể thông qua tâm hồn và có thể dùng tâm hồn làm người thầy thuốc điều trị cho cơ thể.
Một sự vật tồn tại như là mục đích tự nhiên khi nó vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của chính nó.
Không có điều gì là không có tính hợp mục đích đối với cái Toàn bộ.
Phải chăng mục đích của Tự Nhiên được ta suy tưởng cho sự sản sinh ra sự vật là hữu ý hay vô ý cũng chỉ có thể mang lại những phán đoán (nghi vấn) về đối tượng, tức không biết phải khẳng định hay phủ nhận chúng; và ta không hề biết ta đang phán đoán về một điều gì hay chẳng về một điều gì cả.
Vậy, rốt cục, môn Mục đích luận hoàn chỉnh nhất chứng minh điều gì? Phải chăng nó chứng minh rằng có sự hiện hữu của một Hữu thể có trí tuệ? Không! Nó chỉ chứng minh rằng, dựa theo đặc tính cấu tạo của các quan năng nhận thức của ta và trong việc nối kết chặt chẽ của kinh nghiệm với các nguyên tắc tối cao của lý tính, ta tuyệt đối không thể hình thành một khái niệm nào về khả thể của một thế giới như thế ngoài việc suy tưởng về một nguyên nhân tối cao của thế giới hành động một cách hữu ý.
Khái niệm về một Hữu thể tuyệt đối tất yếu quả là một Ý niệm thiết yếu, không thể thiếu được của lý tính, nhưng vẫn là một khái niệm nghi vấn mà giác tính con người không bao giờ có thể đạt tới được.
Xét về sự quy định hay vận mệnh của con người, con người quả là mục đích tối hậu của Tự Nhiên. Nhưng, với điều kiện là con người có ý thức về điều đó và có ý chí để mang lại cho tự nhiên và cho chính mình một mối quan hệ mục đích như thế, tức là mối quan hệ có thể tự túc tự mãn, độc lập với Tự nhiên và, do đó, có thể là mục đích tự thân, song đó lại là một điều tuyệt nhiên không được phép đi tìm ở bên trong bản thân Tự nhiên.
Điều kiện hình thức để chỉ nhờ đó tự nhiên mới đạt được ý đồ tối hậu này của chính mình [bản thân tự nhiên] chính là việc sắp xếp các mối quan hệ giữa con người với nhau, sao cho pháp quyền trong một cái toàn bộ – mà ta gọi là xã hội dân sự – đối lập lại sự lạm dụng của các quyền tự do đang xung đột nhau; và, chỉ trong một xã hội như thế, sự phát triển tối đa những tố chất tự nhiên mới diễn ra được.
Về con người (và về bất kỳ hữu thế có lý tính nào ở trong thế giới) với tư cách là một hữu thể luân lý, ta không còn tiếp tục đặt câu hỏi: hữu thể ấy hiện hữu để làm gì? (latin: quem in finem). Sự hiện hữu của con người có bản thân mục đích tối cao ở trong chính mình.
Chỉ có trong con người, và chỉ trong con người với tư cách là chủ thể của luân lý, ta mới bắt gặp sự ban bố quy luật vô điều kiện đối với các mục đích, vì thế, chỉ có sự ban bố quy luật này mới làm cho con người có năng lực trở thành một mục đích tự thân mà toàn bộ tự nhiên phải phục tùng theo nghĩa mục đích luận.
Hạnh phúc chỉ có thể là một mục đích có điều kiện…hạnh phúc chỉ liên kết với mục đích tự thân như là một kết quả, tùy theo mức độ của sự hài hòa giữa con người với mục đích tự thân ấy, như là với mục đích của chính sự hiện hữu của con người.
Chính Thiện Ý mới là cái duy nhất làm cho sự hiện hữu của con người có thể có được một giá trị tuyệt đối, và, trong quan hệ với Thiện ý, sự hiện hữu của thế giới mới có thể có được một mục đích tự thân.
Chỉ với tư cách là một hữu thể luân lý, con người mới có thể là một mục đích tự thân của sự Sáng tạo.
Chính sự sợ hãi thoạt tiên đã tạo ra những quỷ thần, còn chính lý tính – nhờ vào các nguyên tắc luân lý của nó – mới lần đầu tiên có thể hình thành nên khái niệm về Thượng đế.
Quy luật luân lý – như là điều kiện mô thức của lý tính trong việc sử dụng sự Tự do của ta – tự nó ràng buộc ta mà không phụ thuộc vào bất kỳ một mục đích nào xét như điều kiện chất liệu; song nó lại quy định cho ta, và quy định một các tiên nghiệm, một mục đích tự thân buộc ta phải nỗ lực vươn tới; và mục đích này là cái Thiện tối cao trong thế giới có thể có được thông qua sự Tự do.