You are currently viewing Phê phán năng lực phán đoán (1/2)- Mỹ học & mục đích luận (Immanuel Kant)-Critique of Judgment (Kritik der Urteilskraft)

Phê phán năng lực phán đoán (1/2)- Mỹ học & mục đích luận (Immanuel Kant)-Critique of Judgment (Kritik der Urteilskraft)

0.06.15 Phê phán năng lực phán đoán – Mỹ học & mục đích luận (Immanuel Kant)

(Bản dịch & chú giải của Bùi Văn Nam Sơn, 2006)

LNV: viên đá đỉnh vòm của toà nhà triết học Kant, năng lực phán đoán, kết nối giữa lý thuyết & thực hành, tự nhiên & tự do – thống nhất và hoà hợp do năng lực này.

Quyển cuối trong bộ 3 Phê Phán của Kant, khó đọc hơn, nhưng càng về sau càng hay, giải quyết 1 trong những câu hỏi hóc búa nhất: vậy Tự Nhiên có mục đích gì không? Mục đích của con người là gì? Vấn đề của Hữu Thể tối cao (hay là Thượng Đế)?

Và những nhận định rất hay về cái đẹp, sự vui sướng, hài lòng, thoả mãn, hay hạnh phúc – liệu có 1 cái đẹp phổ biến, toàn trị hay không?

Và phân biệt giữa cái đẹp chủ quan, khách quan như thế nào – làm sao một người mù có thể biết và cảm nhận được rằng 1 bức tranh là đẹp?

Đâu là điểm chung về cái Đẹp, hay nhận thức về cái Đẹp, giữa muôn người, bất chấp địa vị – văn hoá –  kiến thức, có hay không?

Sự đào luyện về văn hoá của con người có phải là mục đích tối hậu hay là 1 con đường phải đi của con người?

Con người như là động vật hữu lý duy nhất có mục đích tự thân, vừa là nguyên nhân tự khởi, vừa là kết quả của nguyên nhân đó.

Một vài trích dẫn

Tự nhiên vẫn tồn tại mà không cần đến việc ta phán đoán nó là hợp mục đích hay không…đối tượng khách quan vẫn tồn tại nhưng không tồn tại như cái gì có ý nghĩa cho ta.

Ta xem một đối tượng là đẹp khi “tự bản thân nó” làm hài lòng ta chứ không xét đến khái niệm khách quan hay dựa vào các cảm giác dễ chịu hay tốt (về luân lý).

Ai phán đoán nó theo tiêu chuẩn của việc chiếm hữu hay sử dụng, thì tức là phán đoán nó dựa theo một nhu cầu chứ không còn vì bản thân nó.

Đẹp là hình thức của tính hợp mục đích của một đối tượng, trong chừng mực hình thức này được nhận ra nơi đối tượng mà không hình dung nên một mục đích nào hết.

Khác với những đối tượng thẩm mỹ, việc phán đoán những tiến trình hữu cơ như là “hợp mục đích” là có tính khách quan chứ không phải chủ quan, là hiện thực chứ không phải đơn thuần trí tuệ, và sau cùng là có tính nội tại nơi đối tượng chứ không phải ngoại tại.

Để bảo rằng đối tượng là đẹp và chứng tỏ rằng tôi có sở thích, tất cả vấn đề là ở chỗ những gì tôi tạo ra ở bên trong tôi từ biểu tượng ấy chứ không phải ở chỗ tôi phụ thuộc vào sự hiện hữu của đối tượng.

Hạnh Phúc với tất cả sự đầy đủ của tiện nghi, còn xa mới là một cái Tốt (cái Thiện) vô điều kiện.

Dễ chịu là cái gì làm ta thích khoái; đẹp là cái gì chỉ đơn thuần làm ta hài lòng; còn tốt là cái gì được quý trọng, thừa nhận, tức, cái gì được ta đặt vào đó một giá trị khách quan.

Chỉ có sự ái mộ là sự hài lòng duy nhất có tính tự do. (trong: xu hướng, ái mộ, tôn kính)

Sở thích là quan năng phán đoán về một đối tượng hay về một phương cách biểu tượng bằng một sự hài lòng hay không hài lòng mà không có bất kỳ sự quan tâm nào. Đối tượng của một sự hài lòng như vậy gọi là ĐẸP.

ĐẸP là cái gì làm ta hài lòng một cách phổ biến, độc lập với khái niệm.

Sự vui sướng với cái ĐẸP không phải là sự vui sướng với các thuộc tính nhất định của đối tượng mà là sự vui sướng trước trạng thái hài hoà của năng lực nhận thức của chính ta.

Tính hợp mục đích khách quan bên ngoài là tính hữu ích, còn tính hợp mục đích khách quan bên trong là tính hoàn hảo của đối tượng.

Vẻ đẹp là hình thức của tính hợp mục đích của một đối tượng, trong chừng mực tính hợp mục đích ấy được tri giác mà không có hình dung nào về một mục đích [khách quan] nơi đối tượng.

ĐẸP là cái gì được nhận thức như là đối tượng của một sự hài lòng TẤT YẾU, nhưng độc lập với khái niệm.

Đối với cái đẹp của tự nhiên, ta phải tìm một cơ sở [nguyên nhân] ở bên ngoài ta, còn đối với cái CAO CẢ thì chỉ đơn thuần ở trong ta và trong lề lối tư duy của tâm thức đưa tính cao cả vào trong hình dung của ta về tự nhiên.

Tính CAO CẢ đích thực phải được đi tìm ở trong tâm thức của chủ thể phán đoán, chứ không phải ở nơi đối tượng tự nhiên.

Tự nhiên cũng tiêu biến thành bé mọn vô nghĩa trước các ý niệm của lý tính, một khi trí tưởng tượng muốn ra sức mang lại một sự diễn tả tương ứng với các Ý Niệm này.

Sự TÔN KÍNH là xúc cảm về nỗi bất lực của ta trong việc đạt đến được một Ý niệm [của lý tính], khi Ý niệm ấy là quy luật đối với ta.

Mê tín = khiếp sợ, lo sợ, nhưng không kính trọng. Từ thái độ mê tín thực sự không thể nảy sinh được điều gì ngoài sự van nài phước lộc và sự siểm nịnh, thay vì một nền tôn giáo được thể hiện trong đời sống thiện hảo.

CAO CẢ là cái gì làm hài lòng một cách trực tiếp thông qua sự đề kháng của nó chống lại sự quan tâm của giác quan.

Những kích động thì sôi nổi và không có dự mưu, còn những đam mê thì lâu bền và có tính toán, cho nên sự bất bình thể hiện bằng giận dữ là một sự kích động, còn thể hiện như sự thù ghét (khao khát trả thù) là một đam mê. Đam mê, trong mọi trường hợp, không bao giờ được gọi là cao cả, vì trong sự kích động, sự tự do của tâm thức bị kìm hãm, còn trong sự đam mê, sự tự do bị triệt tiêu.

Suy nghĩ bằng cái đầu của mình [giác tính]

Suy nghĩ từ vị trí hay quan điểm của người khác [năng lực phán đoán]

Suy nghĩ nhất quán với chính mình. [lý tính]

(còn tiếp)

Vui lòng đánh giá bài viết! Click to rate this post!
[Total: 0 Average: 0]

Leave a Reply